Trong một năm, đối với dương lịch hay âm lịch có sự giống nhau là 12 tháng. Tháng dương lịch là 30 hay 31 ngày, nhưng tháng âm lịch thì không có ngày 31. Ngoài ra, tháng âm lịch có những tháng thiếu chỉ có 29 ngày cho nên năm nhuận sẽ thêm vào đó một tháng nhuận và như thế năm nhuận âm lịch có 13 tháng.
Chính nhờ như thế mà hai loại lịch này vẫn song song và chỉ chênh lệch nhau ước chừng trên dưới một đến hai tháng và sự chênh lệch này giử chừng trong khoảng đó không tăng thêm nữa.
Người ta nói rằng âm lịch dựa trên sự chuyển động của mặt trăng. Điều này đúng nhưng còn thiếu sót, bởi trong âm lịch còn có bảng Tiết khí, cụ thể bạn vẫn thấy như: "Lập Xuân" - "Vũ Thủy" - "Kinh Trập" và vân vân. Mỗi năm có như vậy là hai mươi bốn tiết khí khác nhau, nông dân ta đã dựa vào đây để canh tác, thu hoạch hay xuống giống loại nông sản nào đó tùy theo tiết khí của nó. Tiết khí này dựa trên góc Kinh độ giữa mặt trời và trái đất.
Thế cho nên phải nói âm lịch dựa trên cả mặt trăng lẩn mặt trời thì đúng hơn. VÔ THƯỜNG sẽ có bài viết để minh chứng âm lịch là lịch Vũ Trụ vì can và chi trên lịch bắt nguồn từ vũ trụ. Các bạn chờ xem nhe... Bây giờ các bạn xem tiếp về Tiết khí của một năm. Bảng phân tích này ứng dụng cho tất cả các năm trong thế kỷ 19, 20, 21 và 22.....
Dĩ nhiên tiết khí này dựa trên góc phương vị kinh độ của mặt trời với trái đất và 24 tiết khí chi tiết cụ thể như sau: Lập Xuân: Mặt trời ở Kinh độ 315°, nhằm ngày 4 đến 5 tháng 2 dương lịch. Đây là tiết LẬP XUÂN âm lịch.
Vũ Thủy: Mặt trời ở Kinh độ 330°, nhằm ngày 18 đến 19 tháng 2 dương lịch. Đây là tiết VŨ THỦY âm lịch. Có thể hiểu hai chữ Vũ Thủy như là "Mưa Ấm".
Cốc Vũ: Mặt trời ở Kinh độ 30°, nhằm ngày 20 đến 21 tháng 2 dương lịch. Đây là tiết CỐC VŨ âm lịch. Cốc Vũ có nghĩa là Mưa Rào.
Kinh Trập: Mặt trời ở Kinh độ 345°, nhằm ngày 5 đến 6 tháng 3 dương lịch. Đây là tiết KINH TRẬP âm lịch. Kinh Trập có nghĩa là Sâu Nở.
Xuân Phân: Mặt trời ở Kinh độ 0°, nhằm ngày 20 đến 21 tháng 3 dương lịch. Đây là tiết LẬP XUÂN âm lịch. Xuân Phân có nghĩa là Giữa mùa Xuân.
Thanh Minh: Mặt trời ở Kinh độ 15°, nhằm ngày 4 đến 5 tháng 4 dương lịch. Đây là tiết THANH MINH âm lịch. Thanh Minh nghĩa là Sáng Xanh, vì bầu trời trong tiết này như thế. Đa số dân Việt miền Nam chọn ngày này để đi tảo mộ, dán giấy cho mã mồ và cúng kiến. Trong truyện Kiều (của Nguyễn Du) có câu: "Thanh minh trong tiết tháng Ba, Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh". Đến nay phong tục tốt đẹp đó vẫn còn lưu giử. Chữ tháng ba trong câu thơ là tháng ba âm lịch bạn nhé. Lập Hạ: Mặt trời ở Kinh độ 45°, nhằm ngày 5 đến 6 tháng 5 dương lịch. Đây là tiết LẬP HẠ âm lịch. Lập Hạ có nghĩa là bắt đầu mùa Hạ.
Tiểu Mãn: Mặt trời ở Kinh độ 60°, nhằm ngày 21 đến 22 tháng 5 dương lịch. Đây là tiết TIỂU MÃN âm lịch. Tiểu Mãn có nghĩa là Lũ nhỏ.
Mang Chủng: Mặt trời ở Kinh độ 75°, nhằm ngày 5 đến 6 tháng 6 dương lịch. Đây là tiết MANG CHỦNG âm lịch. Mang Chủng có nghĩa là ngủ cốc trổ bông.
Hạ Chí: Mặt trời ở Kinh độ 75°, nhằm ngày 21 đến 22 tháng 6 dương lịch. Đây là tiết HẠ CHÍ âm lịch. Hạ Chí có nghĩa là cuối mùa Hạ.
Tiểu Thử: Mặt trời ở Kinh độ 105°, nhằm ngày 7 đến 8 tháng 7 dương lịch. Đây là tiết TIỂU THỬ âm lịch. Tiểu thử có nghĩa là Nóng Nhẹ.
Đại Thử: Mặt trời ở Kinh độ 120°, nhằm ngày 22 đến 23 tháng 7 dương lịch. Đây là tiết ĐẠI THỬ âm lịch. Đại Thử có nghĩa là oi bức. Lập Thu: Mặt trời ở Kinh độ 135°, nhằm ngày 7 đến 8 tháng 8 dương lịch. Đây là tiết LẬP THU âm lịch. Lập Thu có nghĩa bắt đầu mùa Thu.
Xử Thử: Mặt trời ở Kinh độ 150°, nhằm ngày 23 đến 24 tháng 8 dương lịch. Đây là tiết XỬ THỬ âm lịch. Xử Thử có nghĩa mưa Ngâu.
Bạch lộ: Mặt trời ở Kinh độ 165°, nhằm ngày 7 đến 8 tháng 9 dương lịch. Đây là tiết BẠCH LỘ âm lịch. Bạch lộ có nghĩa là nắng nhạt.
Thu Phân: Mặt trời ở Kinh độ 180°, nhằm ngày 23 đến 24 tháng 10 dương lịch. Đây là tiết THU PHÂN âm lịch. Thu Phân có nghĩa là giữa Thu.
Hàn Lộ: Mặt trời ở Kinh độ 195°, nhằm ngày 8 đến 9 tháng 10 dương lịch. Đây là tiết HÀN LỘ âm lịch. Hàn Lộ có nghĩa là mát mẻ.
Sương Giáng: Mặt trời ở Kinh độ 210°, nhằm ngày 23 đến 24 tháng 10 dương lịch. Đây là tiết SƯƠNG GIÁNG âm lịch. Sương Giáng có nghĩa là sương xuống. Lập Đông: Mặt trời ở Kinh độ 225°, nhằm ngày 7 đến 8 tháng 11 dương lịch. Đây là tiết LẬP ĐÔNG âm lịch. Lập Đông có nghĩa là bắt đầu mùa Đông.
Tiểu Tuyết: Mặt trời ở Kinh độ 240°, nhằm ngày 22 đến 23 tháng 10 dương lịch. Đây là tiết TIỂU TUYẾT âm lịch. Tiểu Tuyết có nghĩa là có tuyết. Nước VN chúng ta nằm trong vùng Nhiệt Đới khá gần đường Xích đạo nên không có Tuyết rơi. Tuy nhiên do sự kiện biến đổi thất thường của Khí Hậu, vài tỉnh miền Bắc VN có tuyết rơi, cụ thể như SaPa. Sự
Đại Tuyết: Mặt trời ở Kinh độ 255°, nhằm ngày 7 đến 8 tháng 12 dương lịch. Đây là tiết ĐẠI TUYẾT âm lịch. Đại Tuyết có nghĩa là tuyết dầy. Nước VN chúng ta nằm trong vùng Nhiệt Đới khá gần đường Xích đạo nên không có Tuyết rơi. Tuy nhiên do sự kiện biến đổi thất thường của Khí Hậu, vài tỉnh miền Bắc VN có tuyết rơi, cụ thể như SaPa.
Đông Chí: Mặt trời ở Kinh độ 270°, nhằm ngày 21 đến 22 tháng 12 dương lịch. Đây là tiết ĐÔNG CHÍ âm lịch. Đông Chí có nghĩa là giữa Đông.
Tiểu Hàn: Mặt trời ở Kinh độ 285°, nhằm ngày 5 đến 6 tháng 1 dương lịch. Đây là tiết TIỂU HÀN âm lịch. Tiểu Hàn có nghĩa là lạnh ít.
Đại Hàn: Mặt trời ở Kinh độ 300°, nhằm ngày 20 đến 21 tháng 1 dương lịch. Đây là tiết ĐẠI HÀN âm lịch. Đại Hàn có nghĩa là lạnh nhiều. 1 - Âm lịch là lịch của Việt Nam, được công nhận bởi Nha Khí Tượng và Thủy Văn Việt Nam. Bạn đừng lầm tưởng rằng nó là lịch của TQ. Nó gần như song hành với ngày tháng của Lịch TQ nhưng có đôi khi khác Lịch TQ về tháng nhuận (trong năm có Nhuận). Phạm trù này đã có một lần gần đây (khoảng 20 năm trước) đã có lần lịch ta với lịch TQ xa nhau một tháng, để đến tháng nhuận ta thì hai lịch âm của ta và lịch âm của TQ mới lại trùng nhau được.
2 - Lúc đó, rất nhiều người đã hoang mang và thắc mắc. Tôi nhớ là tôi đã viết một bài giải thích nguyên nhân của sự lệch nhau này. Bài viết rất chi tiết để mọi người cùng hiểu, vấn đề chỉ là tháng nhuận bị trùng ngày tiết khí nên không nhuận được ở lịch ta, thế thôi.
3 - Tuy nhiên chúng ta nên hiểu, lịch ta không nhất thiết phải đúng với lịch TQ, vì nếu đi theo chuẩn của TQ thì ngày có con nước cao nhất của ta sẽ không còn đúng ngày mồng ba âm lịch nữa. Vị trí địa lý của ta khá là xa TQ và góc phương vị của mặt trời đối với nước ta dĩ nhiên không giống như TQ, ngày mà mặt trăng đặt sức hút lớn nhất trên vị trí quê hương ta thì triều cường không là đỉnh điểm trên TQ. Nên do vậy, bạn có thể hình dung ra ngày ta (âm lịch) với lịch Tàu không trùng nhau được là đương nhiên.
4 - Bạn đã thấy như trên, bạn sẽ thấy thêm một hệ lụy khác cho những người sử dụng lịch Tàu để xem ngày xuống giống trong nông nghiệp, những ngày triều cường cao nhất để hạ thủy những ghe tàu mới đóng xong thường là không đúng, tôi không bênh vực hay bao che cho lịch Tàu nhưng vì vị trí địa lý của chúng ta khác với vị trí chuẩn của TQ. Cũng vì thế ta mới bắt buộc sử dụng lịch của ta.
5 - Bài viết "24 Tiết Khí" bên trên hoàn toàn căn cứ trên lịch ta nên chuẩn theo vị trí của ta để mọi thứ về tiết khí và can chi đúng với ta. Bảng Bát Quái Đồ cũng vẫn được sử dụng như TQ sử dụng nhưng cần thêm là theo tiêu chuẩn của ta kể cả quyển lịch xem ngày cưới hỏi và động thổ phải vận dụng theo lịch ta thì mới hoàn toàn đúng, bởi lịch ta và TQ thỉnh thoảng phải lệch đi 1 hoặc 2 ngày, vài mươi năm sẽ có lần lệch một tháng và sau đó có tháng nhuận để bù trừ. Sau bù trừ này hai lịch lại khớp nhau. Sự thật của vấn đề là TQ làm lịch không sai, ta cũng không sai. Nếu trong tương lai bạn có gặp trường hợp so le nhau giữa lịch ta và TQ thì có lẽ bạn sẽ không còn hoang mang nữa, sự kiện bắt buộc phải như thế thôi. TQ có đủ khả năng về Quân Sự và Quân Số để uy hiếp chúng ta nhưng không thể uy hiếp mặt trăng và mặt trời được. Can chi trong âm lịch là đến từ vũ trụ chẳng có gì liên quan đến Tập Cận Bình cả.....
CHIA SẺ NỘI DUNG TRÊN TRANG NÀY |